Ra đời từ năm 1983, thuyết Đa trí Thông minh (Multiple Intelligences) của giáo sư Howard Gardner (thuộc trường Đại học Harvard) đã trở thành một trong những tư tưởng tiến bộ có ảnh hưởng sâu sắc đến nền giáo dục hiện đại. Theo học thuyết này, trí thông minh không còn giới hạn ở khả năng tính toán nhanh như chúng ta thường biết, mà mở rộng ra thành 8 loại hình khác nhau, trong đó có trí thông minh ngôn ngữ.
Như chúng ta đều thấy, phần lớn mọi người có thể đọc, viết thành thạo ngôn ngữ của mình nhưng không phải ai cũng có thể là một nhà hùng biện, nhà báo hay luật sư. Sự khác biệt này chính là được tạo ra bởi trí thông minh ngôn ngữ. Cùng đọc bài viết dưới đây để hiểu thêm về loại hình trí thông minh đặc biệt này.
Trí thông minh ngôn ngữ là gì?
Trí thông minh ngôn ngữ là khả năng nhận thức và xử lý thông tin liên quan đến ngôn ngữ như từ vựng, cú pháp, âm thanh, nhịp điệu, sự biến đổi và độ dài của từ. Nói cách khác đó là khả năng nói và viết, khả năng học và sử dụng ngôn ngữ hiệu quả để đạt được mục tiêu. Người có loại hình trí thông minh này thường có sự tự tin nhất định, không biểu thị sự e dè, ngại ngùng trước đám đông. Họ sẵn sàng thể hiện ý kiến cá nhân một cách rạch ròi, rành mạch. Đặc biệt, những người sở hữu trí thông minh ngôn ngữ có xu hướng sở hữu một trí nhớ tốt đối với các chi tiết, thông tin, sự kiện mà họ đã được nghe, đọc hoặc trải qua…
Trí thông minh ngôn ngữ được đánh giá như thế nào?
Theo báo cáo giải mã gen của GeneStory chỉ ra, trí thông minh ngôn ngữ có thể được đo lường bằng các chỉ số:
- Khả năng nhận thức về âm vị: là khả năng chú ý, suy nghĩ và làm việc với các âm vị (Âm vị là đơn vị cấu tạo nên âm tiết, là những âm thanh nhỏ nhất giúp phân biệt nghĩa của một âm tiết. Âm vị không có nghĩa riêng, chỉ có thể phân biệt nghĩa khi kết hợp với các âm vị khác thành âm tiết) trong lời nói. Ví dụ, khi bập bẹ học nói, nhiều trẻ có xu hướng khó phân biệt /b/ và /p/, hay nhầm lẫn ba và pa, hoặc nhầm lẫn /n/ và /l/ khi gọi ông nội, bà nội. Trong khi những bé có khả năng ngôn ngữ tốt, có thể phân biệt và phát âm các âm này một cách rành mạch. Khả năng nhận thức về âm vị tốt chính là một tiền đề quan trọng giúp con học một loại ngôn ngữ mới nhanh chóng.
- Khả năng đọc và phát âm: là khả năng tiếp nhận và nhận biết các biểu tượng (chữ cái, ký hiệu, ngôn ngữ…) và phát âm chúng thành tiếng. Quan sát trong quá trình học chữ của con bố mẹ có thể phát hiện khả năng này trong việc con nhận biết mặt chữ nhanh và đọc lưu loát, phát âm chính xác từ ngữ trong sách.
- Kết nối chức năng ngôn ngữ của não bộ: khả năng trong việc nhận biết, hiểu, giải thích và sử dụng ngôn ngữ. Người có khả năng kết nối chức năng ngôn ngữ của não bộ vượt trội là người có khả năng học ngôn ngữ mới, hiểu cấu trúc ngôn ngữ phức tạp và sử dụng ngôn ngữ một cách hiệu quả trong nhiều ngữ cảnh khác nhau. Trong thực tế, khả năng này có thể được biểu hiện trong việc các con sử dụng 1 từ nhiều nghĩa cho những ngữ cảnh khác nhau.
- Trí nhớ ngôn ngữ: là khả năng tiếp thu, lưu giữ và tái hiện lại thông tin được truyền tải bằng ngôn ngữ, bao gồm khả năng nhanh chóng ghi nhớ và vận dụng các từ mới, các chuỗi từ ghép hoặc những câu chuyện mới được nghe. Ví dụ khi được nghe kể một câu chuyện ngắn, con có thể kể lại ngay cho bố mẹ toàn bộ sự việc diễn ra trong câu chuyện hay việc con ghi nhớ rất kỹ các từ vựng dù chỉ mới đọc qua một vài lần.
Biểu hiện của trẻ có trí thông minh ngôn ngữ
Nhiều phụ huynh cho rằng trí thông minh ngôn ngữ chính là khả năng học ngoại ngữ hay khả năng thuyết trình trước đám đông. Tuy nhiên, biểu hiện của trí thông minh ngôn ngữ thực ra rất đa dạng và dễ dàng nhận thấy.
Trí thông minh ngôn ngữ thường được thể hiện qua sự nhạy cảm với ngôn ngữ (bao gồm cả ngôn ngữ nói và viết), năng lực lĩnh hội và sử dụng ngôn ngữ để đạt được những mục đích nhất định đồng thời, phân tích thông tin, giải quyết vấn đề và tạo ra các sản phẩm bằng ngôn ngữ nói và viết (chẳng hạn như giao tiếp, sáng tác văn học, hùng biện, diễn thuyết,…).
Trong sinh hoạt hàng ngày, cha mẹ có thể nhận thấy trí thông minh ngôn ngữ thông qua các biểu hiện ở trẻ như:
- Ghi nhớ nhanh các thông tin nghe và đọc được
- Yêu thích việc đọc sách
- Thích viết lách để thể hiện những thông tin bản thân muốn truyền tải.
- Thể hiện phong thái tự tin khi giao tiếp với người khác
- Thích kể chuyện, thích giao tiếp thông qua lời nói, thích trao đổi về những vấn đề xảy ra xung quanh mình
- Có khả năng giải thích các vấn đề rành mạch
- Có khả năng vượt trội trong việc học ngôn ngữ, đặc biệt là ngữ pháp
Người nổi tiếng có trí thông minh ngôn ngữ vượt trội
- William Shakespeare: Nhà biên kịch vĩ đại nhất mọi thời đại William Shakespeare được chính là người đã góp phần chuẩn hóa các quy tắc và ngữ pháp tiếng Anh trong thế kỷ 17, 18. Thậm chí, ông còn được ghi nhận là đã phát minh và giới thiệu tới đại chúng hơn 1.700 từ vựng vẫn được sử dụng trong tiếng Anh ngày nay.
- J.K. Rowling: Tác giả của chú bé phù thủy Harry Potter được yêu thích trên khắp thế giới, tài năng và sự yêu thích của J.K. Rowling dành cho văn học đã được bộc lộ sớm từ khi bà học trung học. Bà thông thạo tiếng Anh, Pháp, Đức và luôn dành được lời khen của các giáo viên ngôn ngữ là “một trong các nữ sinh thông minh và giỏi ngôn ngữ”.
- Nicki Minaj: Được mệnh danh là nữ hoàng nhạc Rap, chủ nhân của 10 đề cử Grammy nổi tiếng được biết đến với các bài rap với tốc độ nhanh, khả năng nhả chữ rõ ràng và kiểm soát hơi thở tốt, tạo nên flow ấn tượng, biến hóa đa dạng.
Trí thông minh ngôn ngữ có di truyền không?
Các nghiên cứu khoa học chỉ ra, các loại hình trí thông minh, trong đó bao gồm cả trí thông minh ngôn ngữ cũng chịu ảnh hưởng đáng kể từ gen. Một trong các gen nổi bật phải kể đến như:
- Gen “xử lý ngôn ngữ” EPHA3: tác động lên các kết nối duy trì mạng lưới thần kinh và các mối liên kết giữa các tế bào thần kinh vùng xử lý ngôn ngữ, từ đó ảnh hưởng tới việc phát triển trí thông minh ngôn ngữ.
- Các gen “đọc viết” CD2L1, CDC2L2 và RCAN3: đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quá trình sinh học, kích hoạt nhiều khu vực của não, như vùng thị giác, ngôn ngữ, vùng điều khiên chức năng phản ứng cơ học… ảnh hưởng tới khả năng đọc và viết.
Tuy nhiên, điều này không khẳng định rằng trẻ mang gen có khuynh hướng vượt trội về trí thông minh ngôn ngữ đều chắc chắn trở thành nhà văn, nhà báo, diễn giả… hay những trẻ có chỉ số thông minh ngôn ngữ bình thường thì không thể làm những nghề trên. Ngoài gen còn có các yếu tố khác ảnh hưởng tới lựa chọn tương lai của các con như định hướng của gia đình, môi trường sống hay sở thích của các con. Bố mẹ có thể lựa chọn giải mã gen để biết trước “hạt mầm” tiềm năng trong con, từ đó dễ dàng định hướng nghề nghiệp sau này. Một môi trường giáo dục đúng hướng, thuận theo gen sẽ mở ra nhiều cơ hội hơn cho con phát triển bản thân.